20 tuổi đã suýt bị ung thư đại tràng: Bác sĩ nói người trẻ có 4 dấu hiệu này khi đi vệ sinh phải đi khám gấp
Thông thường, những triệu chứng này chỉ là hội chứng ruột kích thích. Tuy nhiên, trong trường hợp này, bác sĩ kiểm tra lại thấy có 1 polyp kích thước 0,8cm, khá to bên trong đại tràng...
Theo chuyên trang Đời sống & Pháp luật đăng tải bài viết với tiêu đề: "20 tuổi đã suýt bị ung thư đại tràng: Bác sĩ nói người trẻ có 4 dấu hiệu này khi đi vệ sinh phải đi khám gấp", nội dung chính như sau:
ThS.BSNT Hoàng Văn Chương (Chuyên ngành Nội khoa, làm việc tại Hà Nội) chia sẻ, anh mới tiếp nhận một bệnh nhân nam còn rất trẻ, đã có polyp nguy cơ ung thư đại tràng cao.
Bệnh nhân sinh năm 2005, mới 20 tuổi. Từ đợt Tết đến bây giờ, bạn xuất hiện triệu chứng táo bón kèm theo thỉnh thoảng có những đợt đi ngoài phân lỏng, phân nát, dạng phân không thành khuôn. Bạn tâm sự với bác sĩ, từ Tết đến giờ ăn nhiều đồ ngọt. Cách đây vài tháng, bạn đã nội soi kiểm tra đại tràng nhưng chưa thấy có vấn đề gì. Đợt này, bạn thấy triệu chứng không đỡ nên quyết định đi nội soi, kiểm tra lại.
BS Chương nhận định, thường với độ tuổi tầm 20, đa phần các triệu chứng đi ngoài, phân lỏng, phân nát, phân không thành khuôn, kèm theo đau bụng dưới thường là hội chứng ruột kích thích. Tuy nhiên, trong trường hợp này, bác sĩ kiểm tra lại thấy có 1 polyp kích thước 0,8cm, khá to bên trong đại tràng.
“Chúng ta mà chủ quan, cứ nghĩ đấy là hội chứng ruột kích thích, không đi nội soi kiểm tra đại tràng thì nhiều lúc mình sẽ rất dễ bỏ sót tổn thương ở bên trong, thậm chí là ung thư. 20-30 năm nữa, lúc bạn rơi vào độ tuổi tầm 40-50 tuổi, nó có thể phát triển thành ung thư thực sự”, BS Chương cảnh báo.
Bệnh nhân sau đó được bác sĩ cắt bỏ polyp nhanh chóng, về ăn uống và sinh hoạt bình thường, không phải kiêng khem gì cả. Hiện, cơ thể phục hồi tốt, sức khỏe ổn định bình thường.
Chuyên gia khuyên, người trẻ như trường hợp kể trên, mới 20 tuổi đã có polyp tuyến thì trong gia đình như bố mẹ cũng cần phải đi nội soi kiểm tra vì polyp đại tràng có yếu tố gia đình, nên nội soi để tầm soát ung thư, tránh phát hiện muộn, điều trị rủi ro và tốn kém.
|
Theo Mayo Clinic, ung thư đại tràng là tình trạng các tế bào tăng sinh bất thường, khởi phát tại một phần của ruột già gọi là đại tràng. Đại tràng là đoạn đầu tiên và dài nhất của ruột già. Ruột già là phần cuối cùng của hệ tiêu hóa – hệ thống có nhiệm vụ phân giải thức ăn để cơ thể hấp thu và sử dụng. Ung thư đại tràng thường gặp ở người lớn tuổi, nhưng có thể xảy ra ở bất kỳ độ tuổi nào, đặc biệt thời gian gần đây có dấu hiệu trẻ hóa. Bệnh thường bắt đầu từ những cụm tế bào nhỏ gọi là polyp hình thành ở mặt trong đại tràng. Phần lớn polyp là lành tính. Tuy nhiên một số polyp có thể tiến triển thành ung thư đại tràng theo thời gian. Polyp thường không gây triệu chứng. Vì vậy, các bác sĩ khuyến cáo nên thực hiện tầm soát định kỳ để phát hiện polyp trong đại tràng. Việc phát hiện và loại bỏ polyp sớm giúp phòng ngừa ung thư đại tràng. Khi ung thư đại tràng đã hình thành, nhiều phương pháp điều trị có thể giúp kiểm soát bệnh. Các phương pháp bao gồm phẫu thuật, xạ trị và điều trị bằng thuốc như hóa trị, liệu pháp nhắm trúng đích và liệu pháp miễn dịch. Ung thư đại tràng đôi khi còn được gọi là ung thư đại trực tràng. Thuật ngữ này bao gồm cả ung thư đại tràng và ung thư trực tràng, loại ung thư bắt đầu ở trực tràng. |
Theo VnExpress cũng đăng tải bài viết với tiêu đề: "4 điều Gen Z cần biết về ung thư đại trực tràng", nội dung chính như sau:
Bệnh nhân ung thư đại trực tràng ngày càng trẻ hóa, lối sống với chế độ ăn không lành mạnh và ít vận động có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
Ung thư đại trực tràng ảnh hưởng chủ yếu đến người lớn tuổi, nhưng không có nghĩa Gen Z miễn nhiễm với nguy cơ mắc bệnh. Trên thực tế, tỷ lệ mắc ung thư đại tràng ngày càng tăng ở những người dưới 50 tuổi trên toàn cầu. Theo một nghiên cứu được trình bày tại Tuần lễ Bệnh tiêu hóa - một hội nghị y khoa lớn ở Washington, DC (Mỹ) hồi tháng 5/2024, số ca ung thư đại trực tràng tại Mỹ đã tăng 333% ở nhóm tuổi 15-19 và 185% ở nhóm tuổi 20-24 từ năm 1999 đến năm 2020.

Mô hình đại trực tràng. Ảnh: Parkway Cancer Center
Dưới đây là 4 điều Gen Z nên lưu ý để phòng tránh ung thư đại trực tràng, theo bác sĩ Foo Kian Fong, chuyên gia ung thư nội khoa đang công tác tại Trung tâm ung thư Parkway Singapore.
Những nguy cơ từ lối sống
Hiểu được các yếu tố rủi ro liên quan đến ung thư đại trực tràng là rất quan trọng, vì một số khía cạnh nhất định có thể được giảm thiểu bằng việc thay đổi lối sống sinh hoạt hàng ngày. Các yếu tố chính làm tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng bao gồm di truyền, tiền sử gia đình, bệnh viêm ruột, đái tháo đường, béo phì, chế độ ăn uống và lối sống không lành mạnh.
Để giảm nguy cơ mắc bệnh có nguyên nhân từ lối sống, cần cắt giảm đường và rượu bia trong chế độ ăn uống hàng ngày. Ăn nhiều rau, các sản phẩm từ sữa, ngũ cốc nguyên hạt và thực hành lối sống năng động hơn có thể giúp giảm nguy cơ mắc bệnh.

Trong cuộc sống hiện đại, nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng ở giới trẻ đang gia tăng. Ảnh: Parkway Cancer Center
Lắng nghe cơ thể để phát hiện các triệu chứng của bệnh
Nhiều triệu chứng của ung thư đại trực tràng tương tự hội chứng ruột kích thích. Nếu nhận thấy có những thay đổi rõ rệt trong thói quen đi tiêu hoặc có máu trong phân, hay bị đau bụng, buồn nôn, sụt cân hoặc mệt mỏi kéo dài, cùng các dấu hiệu bất thường khác nên tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên môn.
Xét nghiệm sàng lọc
Xét nghiệm sàng lọc giúp phát hiện ung thư đại tràng ngay cả khi không có triệu chứng. Phát hiện sớm ung thư đại tràng có thể cải thiện hiệu quả của các phương pháp điều trị ung thư. Một số xét nghiệm tầm soát bao gồm: xét nghiệm máu ẩn trong phân (FOBT) hoặc xét nghiệm miễn dịch hóa học phân (FIT) có thể phát hiện được lượng máu rất nhỏ trong phân.
Việc nội soi đại tràng cho phép bác sĩ kiểm tra trực tràng và toàn bộ đại tràng bằng một ống dài có đèn (ống nội soi đại tràng) cũng là một cách để tầm soát bệnh.
Nếu muốn tránh đau đớn khi nội soi bằng ống, có thể nội soi đại tràng ảo bằng thiết bị tia X đặc biệt. Phương pháp này giúp ghép các hình ảnh chi tiết có thể hiển thị polyp và các bất thường khác.
Các phương pháp điều trị
Thông thường, phẫu thuật là phương pháp điều trị được khuyến khích thực hiện và có thể thành công ngay cả ở giai đoạn bệnh tiến triển. Một số bệnh nhân có thể cần thêm phương pháp xạ trị và hóa trị. Liệu pháp nhắm trúng đích cũng là một lựa chọn khả thi cho giai đoạn tiến triển.
