Tin vui cho những người hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng, được tăng mức hưởng từ ngày 1/1/2026
HĐND TP Hà Nội đã thông qua Nghị quyết quy định mức chuẩn trợ giúp xã hội và chính sách trợ giúp xã hội của thành phố. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2026.
Báo Gia Đình & Xã Hội ngày 19/12/2025 đã có bài viết với tiêu đề "Tin vui cho những người hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng, được tăng mức hưởng từ ngày 1/1/2026"
Quy định mới về mức tiền trợ giúp xã hội của TP Hà Nội từ 1/1/2026
HĐND TP Hà Nội đã ban hành Nghị quyết 63/2025/NQ-HĐND quy định mức chuẩn trợ giúp xã hội và chính sách trợ giúp xã hội của Thành phố Hà Nội.
Theo Nghị quyết, đối tượng áp dụng trợ giúp xã hội và chính sách trợ giúp xã hội của thành phố Hà Nội bao gồm:
- Đối tượng bảo trợ xã hội theo quy định tại Nghị định số 20/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội.
Đối tượng bảo trợ xã hội hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng tại Nghị định số 20/2021/NĐ-CP bao gồm:
1. Trẻ em dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Bị bỏ rơi chưa có người nhận làm con nuôi;
b) Mồ côi cả cha và mẹ;
c) Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật;
d) Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội, nhà xã hội;
đ) Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;
e) Cả cha và mẹ bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật;
g) Cả cha và mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội, nhà xã hội;
h) Cả cha và mẹ đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;
i) Cha hoặc mẹ bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật và người còn lại đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội, nhà xã hội;
k) Cha hoặc mẹ bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;
l) Cha hoặc mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.
2. Người thuộc diện quy định tại khoản 1 Điều này đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng mà đủ 16 tuổi nhưng đang học văn hóa, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất thì tiếp tục được hưởng chính sách trợ giúp xã hội cho đến khi kết thúc học, nhưng tối đa không quá 22 tuổi.
3. Trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ nghèo.
4. Người thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo chưa có chồng hoặc chưa có vợ; đã có chồng hoặc vợ nhưng đã chết hoặc mất tích theo quy định của pháp luật và đang nuôi con dưới 16 tuổi hoặc đang nuôi con từ 16 đến 22 tuổi và người con đó đang học văn hóa, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất quy định tại khoản 2 Điều này (sau đây gọi chung là người đơn thân nghèo đang nuôi con).
5. Người cao tuổi thuộc một trong các trường hợp quy định sau đây:
a) Người cao tuổi thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng;
b) Người cao tuổi từ đủ 75 tuổi đến 80 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo không thuộc diện quy định ở điểm a khoản này đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn;
c) Người từ đủ 80 tuổi trở lên không thuộc diện quy định tại điểm a khoản này mà không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng;
d) Người cao tuổi thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, không có điều kiện sống ở cộng đồng, đủ điều kiện tiếp nhận vào cơ sở trợ giúp xã hội nhưng có người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc tại cộng đồng.
6. Người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định pháp luật về người khuyết tật.
7. Trẻ em dưới 3 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo không thuộc đối tượng quy định tại các khoản 1, 3 và 6 Điều này đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn.
8. Người nhiễm HIV/AIDS thuộc diện hộ nghèo không có nguồn thu nhập ổn định hàng tháng như tiền lương, tiền công, lương hưu, trợ cấp bảo bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội hàng tháng.
- Đối tượng đang hưởng chính sách trợ giúp xã hội của Thành phố Hà Nội.
- Đối tượng đang hưởng trợ cấp hưu trí xã hội theo quy định tại Nghị định số 176/2025/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về trợ cấp hưu trí xã hội.
Các đối tượng được hưởng mức chuẩn trợ giúp xã hội tại Nghị định số 176/2025/NĐ-CP bao gồm:
- Từ đủ 75 tuổi trở lên;
- Không hưởng lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng; hoặc đang hưởng lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng thấp hơn mức trợ cấp hưu trí quy định tại Nghị định này;
- Có văn bản đề nghị hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
Công dân Việt Nam từ đủ 70 tuổi đến dưới 75 tuổi thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo theo quy định của Chính phủ và đáp ứng đủ điều kiện quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này.
Mức chuẩn trợ giúp xã hội
Theo Nghị quyết mức chuẩn trợ giúp xã hội của thành phố Hà Nội là 650.000 đồng/tháng.
Lưu ý:
Đối với đối tượng đang hưởng trợ cấp hưu trí xã hội theo quy định Luật Bảo hiểm xã hội 2024 và Nghị định số 176/2025/NĐ-CP (hiện đang hưởng trợ cấp là 500.000đ/tháng), được hỗ trợ thêm hằng tháng 150.000 đồng (ngoài chính sách của nhà nước) đảm bảo tổng mức hưởng bằng mức chuẩn trợ giúp xã hội của thành phố Hà Nội và được hưởng quà Tết như các đối tượng bảo trợ xã hội theo chính sách của Thành phố.
Đối với các đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội tại Nghị định số 20/2021/NĐ-CP thì mức trợ cấp xã hội hằng tháng bằng mức chuẩn trợ giúp xã hội nhân với hệ số tương ứng của từng đối tượng.
Trường hợp đối tượng hưởng chính sách trợ giúp xã hội của thành phố Hà Nội thuộc diện hưởng nhiều chính sách trợ cấp, hỗ trợ hằng tháng theo các hệ số khác nhau thì chỉ được hưởng một chính sách hoặc một mức hưởng cao nhất.
Khi Trung ương thay đổi mức chuẩn trợ giúp xã hội và mức hỗ trợ cho các đối tượng quy định tại nghị quyết cao hơn mức của Thành phố thì áp dụng theo mức của Trung ương.
Nghị quyết 63/2025/NQ-HĐND có hiệu lực từ ngày 1/1/2026.
Báo VnExpress cũng có bài viết với tiêu đề "Nhiều tỉnh chi trợ cấp hưu trí cao hơn cho người 75 tuổi"
Quảng Ninh, Hải Phòng dẫn đầu cả nước với mức trợ cấp hưu trí xã hội 700.000 đồng mỗi tháng, Hà Nội và TP HCM là 650.000 đồng, cao hơn mức quy định.
Theo quy định hiện hành, người từ đủ 75 tuổi không có lương hưu, không trợ cấp bảo hiểm xã hội (BHXH) được nhận trợ cấp hưu trí xã hội 500.000 đồng mỗi tháng. Với nhóm hộ nghèo, cận nghèo, độ tuổi áp dụng từ đủ 70 đến dưới 75 tuổi.
Căn cứ vào điều kiện kinh tế và khả năng cân đối ngân sách, nhiều tỉnh thành đã chủ động nâng mức hỗ trợ và mở rộng diện bao phủ bảo hiểm y tế (BHYT) cho người cao tuổi.
Quảng Ninh là địa phương chi trả tiền hưu trí xã hội cao nhất nước với mức 700.000 đồng mỗi tháng, áp dụng từ 27/7. Nhóm đang hưởng trợ cấp hàng tháng thấp hơn mức này được tự động chuyển sang diện thụ hưởng mới mà không cần làm đơn. Từ năm 2026 đến 2030, người già tại đây còn nhận thêm quà Tết 300.000 - 500.000 đồng mỗi người.

Người cao tuổi Quảng Ninh tham dự lễ mừng cơm mới. Ảnh: Lê Tân
Cùng mức 700.000 đồng một tháng là TP Hải Phòng áp dụng từ đầu năm 2026. Với quy mô dân số 4,66 triệu người sau khi sáp nhập Hải Dương, Hải Phòng dự kiến chi hơn 18.000 tỷ đồng cho bảo trợ xã hội giai đoạn 2025 - 2030.
Thành phố cũng chi gần 400 tỷ đồng mỗi năm hỗ trợ 100% BHYT cho 266.000 người từ 60 đến 74 tuổi, Đảng viên 40 năm tuổi Đảng và một số nhóm yếu thế; 70% cho người thu gom rác tại các thôn xóm, khu dân cư; 30% cho người thuộc hộ cận nghèo; 20% cho người thuộc hộ làm nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có mức sống trung bình.
Quảng cáoHà Nội hiện đứng thứ hai cả nước về dân số với hơn 8,6 triệu người, thu ngân sách năm 2025 ước đạt 600.000 tỷ đồng. Từ ngày 1/1/2026, chuẩn trợ giúp xã hội của Thủ đô sẽ tăng lên 650.000 đồng, cao hơn 150.000 đồng so với mức chung cả nước. Đây là căn cứ để Hà Nội thực hiện hàng loạt chính sách an sinh đặc thù.
Theo đó, người từ đủ 75 tuổi không có lương hưu sẽ nhận 650.000 đồng mỗi tháng, kèm theo quà Tết hàng năm. Người cao tuổi nghèo, cận nghèo, không người phụng dưỡng nhận trợ cấp theo hệ số mới. Cụ thể, người từ 60 đến dưới 80 tuổi hưởng 975.000 đồng (hệ số 1,5); người từ đủ 80 tuổi trở lên nhận 1,3 triệu đồng (hệ số 2).
Thành phố cũng mở rộng diện hỗ trợ đóng BHYT. Nhóm được ngân sách hỗ trợ 100% bao gồm: người cao tuổi từ 70 đến dưới 75 tuổi chưa có thẻ; người khuyết tật nhẹ; người dân tộc thiểu số và thành viên hộ mới thoát nghèo, thoát cận nghèo (hỗ trợ trong 36 tháng).
Các nhóm khác cũng nhận mức hỗ trợ kinh phí đóng BHYT đa dạng: Hỗ trợ 50% (tương ứng 52.650 đồng) cho học sinh, sinh viên thuộc hộ nông, lâm, ngư nghiệp có mức sống trung bình; hỗ trợ 30% (tương ứng 31.590 đồng) cho người dân tộc thiểu số tại các xã, thôn từng thuộc diện đặc biệt khó khăn giai đoạn 2016-2020 và hộ làm nông nghiệp có mức sống trung bình.
Phần kinh phí còn lại cho các nhóm này (từ 30% đến 70%) do ngân sách Trung ương đảm nhận.

Người già mưu sinh bằng sạp rau củ ở chợ Thành Công, Hà Nội. Ảnh: Ngọc Thành
TP HCM sau sáp nhập Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu trở thành siêu đô thị với dân số khoảng 14 triệu người, thu ngân sách gần 678.000 tỷ đồng, đứng đầu cả nước. Với nguồn lực dồi dào, thành phố áp dụng mức trợ cấp hưu trí xã hội 650.000 đồng cho người từ 75 tuổi từ tháng 9/2025.
Đây cũng là địa phương tiên phong chi ngân sách mua thẻ BHYT cho các nhóm dân cư lớn. Cụ thể, người từ 65 đến 75 tuổi ngân sách chi trả toàn bộ tiền đóng (khoảng 1,26 triệu đồng mỗi năm); học sinh: Thành phố hỗ trợ 50% mức đóng, 50% còn lại từ Trung ương.
Ước tính có khoảng 0,53 triệu người cao tuổi và hơn 2 triệu học sinh thụ hưởng chính sách này với tổng kinh phí 2.000 tỷ đồng. Ngoài ra, thành phố tiếp tục duy trì khám sức khỏe miễn phí cho toàn bộ người trên 60 tuổi, không phân biệt thường trú hay tạm trú. Chính sách này được kỳ vọng giảm gánh nặng chi phí y tế trong bối cảnh TP HCM có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất nước (10,5% dân số trên 60 tuổi).
Tại Lào Cai (sau sáp nhập với Yên Bái), diện tích toàn tỉnh hiện rộng thứ 8 cả nước với quy mô gần 1,8 triệu dân. Do đặc thù hơn một nửa dân số là đồng bào dân tộc thiểu số như Mông, Tày, Dao, Thái, Hà Nhì... chính sách an sinh tại đây tập trung mạnh vào việc hỗ trợ y tế.
Dù mức trợ cấp hưu trí xã hội giữ theo khung chung 500.000 đồng mỗi tháng, nhưng từ ngày 1/1/2026, ngân sách địa phương sẽ tăng mức hỗ trợ đóng BHYT nhằm giảm rào cản tiếp cận y tế. Cụ thể, hỗ trợ 100% mức đóng cho người dân tộc thiểu số có khó khăn đặc thù; 50% với người từ đủ 60 đến dưới 75 tuổi; 30% với người thuộc hộ cận nghèo.
Tính đến tháng 10/2025, Lào Cai đã có gần 1,5 triệu người tham gia BHYT, đạt tỷ lệ bao phủ 88% dân số. Chính sách mới được kỳ vọng giúp đồng bào vùng cao, nơi có địa bàn rộng và kinh tế còn khó khăn, được chăm sóc sức khỏe tốt hơn.
Thống kê cả nước khoảng 1,6 triệu người cao tuổi thụ hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, gồm 1,5 triệu người từ đủ 75 đến 80 tuổi không có lương hưu và 100.000 người từ đủ 70 đến dưới 75 tuổi thuộc hộ nghèo, cận nghèo.
