Người đàn ông ở Thanh Hóa nguy cơ hoại tử toàn thân, tiên lượng tử vong cao sau khi bị vật nhỏ này đâm vào chân
Theo các bác sĩ, tổn thương của bệnh nhân lan nhanh với tốc độ đáng báo động: Từ cổ chân hoại tử lan dọc bắp chân, vượt qua gối và tiếp tục tiến lên vùng đùi chỉ trong vòng chưa đầy 24 giờ, cảnh báo nguy cơ hoại tử toàn thân.
Ngày 27/05/2025, Gia đình & Xã hội đưa tin "Người đàn ông ở Thanh Hóa nguy cơ hoại tử toàn thân, tiên lượng tử vong cao sau khi bị vật nhỏ này đâm vào chân". Nội dung chính như sau:
Thông tin từ Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương cho biết, vừa qua, các bác sĩ đơn vị này đã tiếp nhận và điều trị cho một bệnh nhân nguy kịch vì viêm mô bào sau khi bị gai đâm vào cẳng chân ở đầm tôm.
Theo đó, 3 ngày trước khi nhập viện, ông T.V.T (55 tuổi, trú tại Thanh Hóa) có lội xuống đầm tôm và bị gai đâm vào cẳng chân trái. Ban đầu, vết thương chỉ là một nốt tròn nhỏ, tuy nhiên, chỉ sau 2 ngày, vùng tổn thương bắt đầu sưng phồng, phù nề, bề mặt sần sùi và nhanh chóng lan rộng dọc theo cẳng chân. Các bóng nước cũng xuất hiện rải rác khắp chân.
Sau đó, ông T. bắt đầu khó thở, tụt huyết áp và không thể tự thở, gia đình đưa ông đến bệnh viện cấp cứu. Lúc này, tình trạng đã chuyển sang sốc nhiễm khuẩn và suy hô hấp nặng.
Toàn bộ chân trái bệnh nhân đã hoại tử lan rộng, chuyển sang màu tím đen sẫm. Ảnh: BVCC.
Tại thời điểm nhập viện Khoa Cấp cứu, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, tổn thương da của bệnh nhân đã lan sang cả hai chân, có dấu hiệu tiến lên vùng đùi và tay với tốc độ rất nhanh. Bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết, viêm mô bào lan tỏa, sốc nhiễm khuẩn và suy đa tạng; phải đặt ống nội khí quản, thở máy và lọc máu liên tục.
Được biết, ông có tiền sử đái tháo đường nặng, trước đó đang được kiểm soát ổn định. Các chỉ số xét nghiệm phản ánh rõ mức độ nguy kịch: tiểu cầu giảm còn 50 G/L (bình thường 150–450) cho thấy rối loạn đông máu; men gan AST tăng trên 200 U/L (bình thường <0,05), phản ánh nhiễm trùng huyết nặng; kèm theo đó là toan chuyển hóa nặng, thiểu niệu và suy thận cấp.
Hiện tại, toàn bộ chân trái bệnh nhân đã hoại tử lan rộng, chuyển sang màu tím đen sẫm – biểu hiện điển hình của hoại tử mô sâu. Cẳng chân phù to gần gấp rưỡi kích thước bình thường, căng cứng, bề mặt da biến dạng, bóng nhẫy, loang lổ những mảng màu tím – đen xen kẽ. Bàn chân tím bầm, các ngón cong vẹo, móng dày sừng, đổi màu đen sẫm do hoại tử kéo dài .
Tổn thương lan nhanh với tốc độ đáng báo động: từ cổ chân, hoại tử lan dọc bắp chân, vượt qua gối và tiếp tục tiến lên vùng đùi chỉ trong vòng chưa đầy 24 giờ. Mức độ tiến triển có thể quan sát thấy rõ bằng mắt thường, thay đổi từng giờ. Ở chi còn lại, các mảng da sậm màu cũng đã xuất hiện và có xu hướng lan rộng – cảnh báo nguy cơ hoại tử toàn thân.
Bệnh nhân hiện đang được hồi sức tích cực bằng lọc máu liên tục, thở máy, kháng sinh phổ rộng liều cao và thuốc vận mạch. Tuy nhiên, tiên lượng vẫn rất dè dặt, nguy cơ tử vong cao.
ThS.BS Lê Sơn Việt – Khoa Cấp cứu, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương cho biết: Viêm mô bào là một bệnh nhiễm khuẩn mô mềm, có thể khởi phát từ những vết thương rất nhỏ nhưng diễn tiến cực kỳ nhanh, đặc biệt nguy hiểm ở người có bệnh nền như đái tháo đường. Vi khuẩn lan theo mô dưới da và hệ bạch huyết, gây viêm lan tỏa, hoại tử cơ – gân – mô mềm. Nếu không điều trị kịp thời, hậu quả có thể là nhiễm trùng huyết, suy đa tạng và tử vong.
Theo BS Việt, viêm mô bào hiện chưa có vaccine hay thuốc dự phòng đặc hiệu. Người dân đặc biệt là những người có bệnh nền như đái tháo đường, tim mạch, suy giảm miễn dịch cần hết sức thận trọng khi tiếp xúc với môi trường tiềm ẩn nguy cơ nhiễm khuẩn (như đầm lầy, ruộng nước, bùn đất…).
Luôn mang đồ bảo hộ khi lội ruộng, ao, đầm và nếu có vết thương ngoài da, cần rửa sạch, sát trùng kỹ. Khi xuất hiện các dấu hiệu bất thường như đỏ, sưng nóng, đau, nổi bóng nước lan nhanh, cần đến cơ sở y tế ngay để được thăm khám, điều trị kịp thời, tránh biến chứng có thể xảy ra.
Ngày 12/5/2025, báo VnExpress đã đăng tải bài viết với tiêu đề: "Bệnh nhân tự ý rời viện - canh bạc với tử thần". Nội dung như sau:
Dù được khuyên giải, người đàn ông ở Hà Nội vẫn không đổi ý, cuối cùng ký giấy tự nguyện xuất viện. Tuy nhiên, chưa kịp rời đi thì cơn đau đầu ngày dữ dội ập đến do áp lực nội sọ tăng lên nhiều. Ông rơi vào hôn mê, may mắn được các bác sĩ cấp cứu kịp thời, qua cơn nguy kịch.
Đây là một trong nhiều trường hợp mà bác sĩ Đoàn Dư Mạnh, Phó Giám đốc Trung tâm Tim mạch và Đột quỵ, Bệnh viện Đa khoa Phương Đông, chuyên gia trong lĩnh vực phẫu thuật và can thiệp mạch máu, lồng ngực từng tiếp nhận. Theo ông Mạnh, nhiều bệnh nhân chấn thương sọ não không biết rằng giai đoạn ban đầu tỉnh táo, gọi là "khoảng tỉnh", chỉ là dấu hiệu tạm thời. Khi biến chứng, tình trạng có thể khiến người bệnh hôn mê, thậm chí tử vong nếu không can thiệp kịp thời. Thời gian "khoảng tỉnh" càng ngắn, nguy cơ càng lớn, nhưng nhiều người vẫn chủ quan vì nghĩ bản thân đã bình phục.
Sự chủ quan của người bệnh xuất hiện ở mọi lứa tuổi, hoàn cảnh. Một nữ bệnh nhân 42 tuổi bị viêm phổi, sốt cao, khó thở, được bác sĩ Phan Văn Phúc, Khoa Hồi sức Cấp cứu, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, cảnh báo cần điều trị kháng sinh đủ liệu trình, song chỉ sau hai ngày hạ sốt, chị vội ký giấy xuất viện. Kết cục, bệnh tái phát nặng, người phụ nữ được đưa trở lại trong tình trạng suy hô hấp và sốc nhiễm trùng.
Không chỉ bệnh lý thể chất, nhiều bệnh nhân tâm thần cũng xin xuất viện sớm trong khi điều trị chưa đáp ứng yêu cầu. Bác sĩ Trần Thị Hồng Thu, Phó Giám đốc Bệnh viện Tâm thần Ban ngày Mai Hương, từng tiếp nhận một cô gái trầm cảm mức độ trung bình, bỏ điều trị vì "ở viện thấy ngột ngạt". Chỉ sau một tháng, bệnh nhân trở lại trong tình trạng nặng, có ý định tự tử.
Hiện Việt Nam chưa có thống kê chính thức về số ca xin rời viện sớm, song các bác sĩ ghi nhận tình trạng này gia tăng ở các bệnh viện tuyến tỉnh hoặc trung ương, nơi thường xuyên bị quá tải điều trị. Còn trên thế giới, công trình đăng trên BMC Medicine năm 2023 cho thấy, các bệnh nhân tự ý rời viện khi điều trị chưa hoàn tất có tỷ lệ tái nhập viện và tử vong cao hơn tới 30-40% so với người tuân thủ đủ phác đồ.

Một số lý do thường thấy bao gồm: rào cản kinh tế, sợ hãi bệnh viện, thiếu hiểu biết về bệnh tình, vấn đề tâm lý và tinh thần (thường gặp ở bệnh nhân mắc bệnh tâm thần) hay trách nhiệm gia đình chưa sắp xếp được.
Nhiều người không đủ khả năng chi trả viện phí dù có BHYT, sợ làm gánh nặng cho gia đình, đặc biệt khi là trụ cột thu nhập hoặc người chăm sóc chính. Nổi bật trong số này là bệnh ung thư do thời gian điều trị lâu, tốn kém, ít cơ hội sống nếu phát hiện muộn.
Lãnh đạo bệnh viện K cho biết một người điều trị thuốc đích hoặc liệu pháp miễn dịch có thể tốn 120-150 triệu đồng mỗi tháng, khoảng 500-600 triệu đồng đến vài tỷ một năm, tùy từng chỉ định và loại thuốc. Mỗi người bệnh có thể phải điều trị trong một đến hai năm. Chi phí điều trị đối với một bệnh nhân ung thư dao động trung bình tại viện này trên 176 triệu đồng một năm. Bảo hiểm chi trả khoảng 52 triệu đồng và người bệnh phải tự chi trả khoảng 124 triệu đồng, chiếm 70% tổng chi phí điều trị. Hiện, chỉ khoảng 10% bệnh nhân ung thư được tiếp cận liệu pháp này.
Có người lại nghĩ mình "không nặng đến mức đó", hoặc ngược lại, cảm thấy quá nặng, không còn khả năng cứu chữa nên xin về. Điều này cũng xuất phát từ việc thiếu hiểu biết bệnh tình, không nhận ra điều trị chưa dứt điểm có thể gây biến chứng hoặc tái phát, chủ quan bỏ giữa chừng, về chữa mẹo, thuốc nam hoặc lời khuyên từ người không chuyên.
Cùng với khó khăn kinh tế là tâm lý sợ hãi và mệt mỏi. Không ít người cảm thấy chính môi trường bệnh viện chật chội, áp lực, điều kiện sinh hoạt ngột ngạt trở thành một "liều thuốc độc" về tinh thần. Khi mỗi chiếc giường bệnh là một cuộc chiến giành sự sống, cảm giác kiệt sức về tâm lý lẫn thể xác khiến nhiều bệnh nhân chỉ mong sớm được về nhà, bất chấp cảnh báo của bác sĩ.
Bác sĩ Phúc cho rằng bệnh nhân đòi về khi chưa điều trị dứt điểm có thể trả giá bằng chính sức khỏe, thậm chí mạng sống. Đơn cử, bệnh viêm phổi có thể biến chứng thành suy hô hấp, viêm ruột thừa vỡ gây nhiễm trùng huyết, các bệnh nội khoa như tăng huyết áp, suy tim, việc ngưng điều trị hoặc không theo dõi sát sao có thể dẫn đến đột quỵ, nhồi máu cơ tim, hoặc tử vong.
Bệnh nhân phải nhập viện trở lại trong tình trạng khó cứu chữa hơn lần đầu. Đặc biệt ở những ca nặng hoặc có yếu tố tâm thần như trầm cảm nặng, ảo giác, ý định tự tử, việc ra viện khi chưa ổn định có thể dẫn đến nguy cơ tử vong cao.
Bỏ điều trị giữa chừng còn gây nhờn, kháng thuốc, hoặc khiến phác đồ sau đó phải mạnh và độc hơn. Chưa kể, mất niềm tin giữa bệnh nhân và bác sĩ sẽ khiến bệnh nhân không hợp tác điều trị ở những lần tiếp theo.
Về vấn đề tâm lý, khi người bệnh nhất quyết xin về, nhân viên y tế có thể sẽ cảm thấy bất lực hoặc đau lòng, trong khi gia đình sống trong lo lắng hoặc day dứt nếu tình trạng bệnh xấu đi, theo bà Thu.

Trước thực trạng này, nhiều chuyên gia cho rằng điều quan trọng nhất là cần xây dựng niềm tin và sự thấu hiểu. Việc đầu tiên là các y bác sĩ phải lắng nghe, tôn trọng suy nghĩ, hoàn cảnh của người bệnh, từ đó giải thích rõ ràng bằng ngôn ngữ dễ hiểu về nguy cơ, nguy hiểm nếu rời viện trước thời điểm an toàn. Đơn giản hóa thông tin y khoa, lấy ca bệnh thực tế minh họa có thể giúp xóa đi sự chủ quan, mơ hồ.
Song song, chính sách hỗ trợ tài chính cần tiếp cận được đúng đối tượng: đẩy mạnh quỹ trợ giúp bệnh nhân nghèo, tối ưu hóa chi trả bảo hiểm, mở rộng cơ hội tiếp cận các loại thuốc mới. Ở một khía cạnh khác, nâng cao điều kiện vật chất, cải thiện môi trường sinh hoạt, giảm bớt áp lực tâm lý – vốn là những yếu tố vô hình nhưng bào mòn sức lực bệnh nhân, cũng cần được chú trọng.
Quan trọng hơn cả là thay đổi tư duy của xã hội về việc chữa bệnh phải "đến nơi đến chốn", coi việc hoàn tất điều trị như xây móng vững chắc cho hành trình hồi phục. "Một quyết định vội vã rời viện không chỉ trả giá bằng sức khỏe, mà còn để lại những tiếc nuối không gì bù đắp nổi cho cả gia đình và đội ngũ y tế", bác sĩ Phúc cho hay.