Ngay bây giờ, toàn dân Việt Nam có quyền quyết định một việc
Quyết định này được đưa ra để phù hợp với tình hình thực tiễn ở Việt Nam.
Theo báo Người đưa tin ngày 4/6 có bài Ngay bây giờ, toàn dân Việt Nam có quyền quyết định một việc. Nội dung như sau:
Người dân Việt Nam được quyền quyết định thời điểm sinh con, số lượng con và khoảng cách giữa các lần sinh. Ảnh: NS
Theo đó, chiều qua (3/6), Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số số 06/2003/PL-UBTVQH11 đã được sửa đổi, bổ sung theo Pháp lệnh số 08/2008/PL-UBTVQH12. Trong đó, bãi bỏ quy định mỗi cặp vợ chồng chỉ được sinh một hoặc hai con.
Theo quy định mới này, các cặp vợ chồng được quyền quyết định thời điểm sinh con, số lượng con và khoảng cách giữa các lần sinh, căn cứ vào độ tuổi, tình trạng sức khỏe, điều kiện học tập, lao động, công tác, thu nhập và khả năng nuôi dạy con của từng cá nhân, cặp vợ chồng, trên cơ sở bình đẳng. Pháp lệnh có hiệu lực kể từ ngày được thông qua.
Ngoài ra, Pháp lệnh cũng giữ quy định mỗi cặp vợ chồng, cá nhân bảo vệ sức khỏe, thực hiện các biện pháp phòng ngừa bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS và thực hiện các nghĩa vụ khác liên quan đến sức khỏe sinh sản.
Trước đó, Bộ trưởng Y tế Đào Hồng Lan cho biết, việc sửa đổi nhằm điều chỉnh tình trạng chênh lệch mức sinh giữa các vùng và nhóm đối tượng, ngăn ngừa mức sinh giảm quá thấp, không đạt mức sinh thay thế. Hơn nữa, mức sinh thấp kéo dài có thể ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, xã hội, an ninh và quốc phòng trong tương lai.
Thực trạng dân số Việt Nam đã phát sinh các vấn đề đáng lo ngại
Theo dự báo, đến năm 2039, Việt Nam sẽ kết thúc giai đoạn dân số vàng. Ảnh minh họa
Chính phủ cũng nhận định rằng, quy định hiện hành về giới hạn số con không còn phù hợp với thực tiễn khi mức sinh ở Việt Nam đang giảm. Thực trạng dân số Việt Nam đã phát sinh các vấn đề đáng lo ngại. Theo đó, mức sinh trên toàn quốc đang có xu hướng giảm thấp dưới mức sinh thay thế, từ 2,11 con/phụ nữ (năm 2021) xuống 2,01 con/phụ nữ (năm 2022), 1,96 con/phụ nữ (năm 2023) và 1,91 con/phụ nữ (năm 2024). Đây là mức thấp nhất trong lịch sử và được dự báo sẽ tiếp tục xuống thấp trong các năm tiếp theo.
Từ thực trạng này, ban soạn thảo đề xuất sửa đổi khoản 1, điều 10 pháp lệnh dân số theo hướng: Từ mỗi cặp vợ chồng, cá nhân "quyết định thời gian và khoảng cách sinh con" thành "quyết định về thời gian sinh con, số con, và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khỏe, điều kiện học tập, lao động, công tác, thu nhập và nuôi dạy con của cá nhân, cặp vợ chồng trên cơ sở bình đẳng.
Theo đó, Dự thảo bỏ quy định: "Sinh một hoặc hai con, trừ trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định". Theo Bộ trưởng Bộ Y tế, sửa đổi này để khắc phục tình trạng chênh lệch mức sinh giữa các vùng, đối tượng, tránh để mức sinh giảm quá thấp, không đạt mức sinh thay thế.
Trình bày thẩm tra dự án Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội Nguyễn Đắc Vinh cho biết, Uỷ ban cơ bản thống nhất với nội dung dự thảo. Theo ông Nguyễn Đắc Vinh, việc sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số nhằm thể chế hóa ngay ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị và để đáp ứng yêu cầu thực tiễn nên Ủy ban đồng tình việc Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định dự án Pháp lệnh được xây dựng, ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn và có hiệu lực thi hành kể từ ngày Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua.
Theo thông tin từ Điều tra dân số giữa kỳ 2024, tại thời điểm ngày 1/4/2024, dân số Việt Nam là 101.112.656 người. Việt Nam là quốc gia đông dân thứ ba trong khu vực Đông Nam Á, sau Indonesia và Philippines; và thứ 16 trên thế giới. Sau 5 năm, kể từ năm 2019 đến nay, quy mô dân số của Việt Nam tăng thêm 4,9 triệu người. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm giai đoạn từ 2019 - 2024 là 0,99%/năm, giảm 0,23 điểm phần trăm so với giai đoạn 2014 - 2019 (1,22%/năm).
Theo dự báo, đến năm 2039, Việt Nam sẽ kết thúc giai đoạn dân số vàng. Đến năm 2042, dân số trong độ tuổi lao động ở nước ta đạt đỉnh và từ sau năm 2054 dân số có thể tăng trưởng âm. Tình trạng này sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hụt lao động, suy giảm quy mô dân số và gia tăng tốc độ già hóa, từ đó là ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội.
Trước đó, vào tháng 3/2025, Ủy ban Kiểm tra Trung ương ban hành Hướng dẫn số 15 sửa đổi một số điều trong Hướng dẫn năm 2022 về xử lý kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Theo đó, đảng viên sinh con thứ 3 trở lên sẽ không bị kỷ luật.
Theo báo Tiền phong ngày 4/6 có bài Thông tin quan trọng về dùng mã định danh cá nhân thay mã số thuế. Nội dung như sau:
Theo quy định tại Luật Quản lý thuế số số 38/2019/QH14 và Thông tư 86 của Bộ Tài chính, số định danh cá nhân sẽ chính thức được sử dụng thay cho mã số thuế, đối với hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh và các cá nhân khác.
Đối tượng áp dụng là cá nhân có thu nhập thuộc diện chịu thuế thu nhập cá nhân ; cá nhân là người phụ thuộc theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập cá nhân; người đại diện hộ gia đình, đại diện hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh; tổ chức, hộ gia đình và cá nhân khác có nghĩa vụ với ngân sách nhà nước.
Chi cục Thuế khu vực I (quản lý địa bàn Hà Nội, Hoà Bình) lưu ý, 3 tình huống trong việc chuyển đổi sử dụng số định danh cá nhân thay cho mã số thuế.
Sau khi đăng nhập cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế, tại thanh chức năng, tích chọn mục "Đăng ký thuế", "Thay đổi thông tin".
Thứ nhất , đối với người nộp thuế đã được cấp mã số thuế trước ngày 1/7, có thông tin đăng ký thuế khớp với dữ liệu dân cư, cơ quan thuế sẽ tự động cập nhật. Người nộp thuế có thể sử dụng số định danh cá nhân thay cho mã số thuế hiện tại mà không cần làm thủ tục gì thêm.
Từ thời điểm trên, tất cả các hoạt động điều chỉnh, bổ sung nghĩa vụ thuế, đăng ký giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc… sẽ được thực hiện theo số định danh cá nhân.
Thứ hai , nếu thông tin đăng ký thuế chưa khớp, hoặc không đầy đủ so với dữ liệu dân cư quốc gia, cơ quan thuế sẽ chuyển mã số thuế của người nộp thuế sang trạng thái “chờ cập nhật thông tin số định danh cá nhân”.
Trong trường hợp này, người nộp thuế cần chủ động thực hiện thủ tục thay đổi thông tin đăng ký thuế theo hướng dẫn tại Điều 25 Thông tư 86/2024/TT-BTC để đảm bảo dữ liệu trùng khớp. Chỉ sau khi hoàn tất việc đối soát, số định danh cá nhân mới được sử dụng chính thức thay thế mã số thuế.
Thứ ba , đối với các cá nhân đã được cấp nhiều hơn một mã số thuế , người nộp thuế cần chủ động cập nhật thông tin số định danh cá nhân cho tất cả các mã số thuế đang tồn tại.
Cơ quan thuế sẽ căn cứ vào thông tin định danh để tích hợp và hợp nhất toàn bộ dữ liệu thuế vào một số định danh duy nhất. Việc hợp nhất này không làm mất giá trị pháp lý của các hóa đơn, chứng từ hay hồ sơ thuế đã lập trước đó. Người nộp thuế vẫn có thể sử dụng các giấy tờ có mã số thuế cũ để thực hiện các thủ tục hành chính về thuế mà không cần điều chỉnh lại thông tin.
Để biết tình trạng đối chiếu dữ liệu thuế với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư , người nộp thuế có thể tra cứu trên Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế tại địa chỉ www.gdt.gov.vn, hoặc qua trang Thuế điện tử thuedientu.gdt.gov.vn, hay thông qua các ứng dụng thuế điện tử như iCaNhan và eTaxMobile nếu đã có tài khoản giao dịch điện tử với cơ quan thuế.
Trong trường hợp phát hiện thông tin sai lệch, người nộp thuế cần liên hệ ngay với cơ quan thuế quản lý trực tiếp hoặc Chi cục Thuế nơi cư trú để được hướng dẫn cập nhật, điều chỉnh thông tin chính xác.