Lương hưu được tính thế nào từ ngày 1/7/2025?
Theo Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) năm 2024 sẽ có hiệu lực từ ngày 1/7/2025, người lao động có thời gian đóng BHXH bắt buộc từ đủ 15 năm trở lên sẽ được hưởng lương hưu.
Ngày 13/11/2024, báo Tiền Phong đã đăng tải bài viết với tiêu đề: "Lương hưu được tính thế nào từ ngày 1/7/2025?". Nội dung cụ thể như sau:
BHXH Việt Nam vừa giải đáp thắc mắc của người lao động liên quan đến điều kiện hưởng lương hưu theo quy định mới của Luật BHXH năm 2024 có hiệu lực từ ngày 1/7/2025. Trường hợp này người lao động đóng BHXH từ tháng 2/2007, làm việc trong môi trường bình thường.
Theo BHXH Việt Nam, Điều 64 Luật BHXH năm 2024 có hiệu lực từ ngày 1/7/2025 quy định điều kiện hưởng lương hưu đối với người lao động làm việc trong điều kiện bình thường là đủ tuổi hưởng lương hưu theo quy định và có thời gian đóng BHXH bắt buộc từ đủ 15 năm trở lên (quy định hiện hành là từ đủ 20 năm trở lên - PV).
Về mức lương hưu hằng tháng, theo quy định tại Khoản 1 Điều 66 Luật BHXH năm 2024, đối với lao động nữ bằng 45% mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng BHXH quy định tại Điều 72 của Luật này tương ứng 15 năm đóng BHXH, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng thì tính thêm 2%, mức tối đa bằng 75%.
Đối với lao động nam bằng 45% mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng BHXH quy định tại Điều 72 của Luật này tương ứng 20 năm đóng BHXH, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng thì tính thêm 2%, mức tối đa bằng 75%.
Trường hợp lao động nam có thời gian đóng BHXH từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm, mức lương hưu hằng tháng bằng 40% mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng BHXH quy định tại Điều 72 của Luật này, tương ứng 15 năm đóng BHXH, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng thì tính thêm 1%.
Về mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH, Điểm d Khoản 1 Điều 72 Luật BHXH năm 2024 quy định: người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định có toàn bộ thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lương này, thì tính bình quân tiền lương làm căn cứ đóng BHXH của số năm đóng BHXH trước khi nghỉ hưu .
Trường hợp bắt đầu tham gia BHXH từ ngày 1/1/2007 đến ngày 31/12/2015 thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng BHXH của 10 năm cuối trước khi nghỉ hưu.
Khoản 3 Điều 72 Luật BHXH năm 2024 quy định: người lao động vừa có thời gian đóng BHXH thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, vừa có thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì tính bình quân tiền lương tháng đóng BHXH chung của thời gian, trong đó thời gian đóng theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định được tính bình quân tiền lương tháng đóng BHXH tại Khoản 1 Điều này.
“Việc tính mức lương hưu phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tổng thời gian đã đóng BHXH, diễn biến thu nhập tháng làm căn cứ đóng BHXH, cả quá trình đóng BHXH đến khi nghỉ hưu, tuổi đời, giới tính, thời điểm nghỉ hưu, chỉ số giá tiêu dùng của từng thời kỳ theo quy định của Chính phủ...”, BHXH Việt Nam thông tin.
Tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường theo khoản 2 Điều 169 Bộ luật Lao động 2019 được quy định cụ thể như sau: Kể từ ngày 01/01/2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 03 tháng đối với lao động nam và đủ 55 tuổi 04 tháng đối với lao động nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 03 tháng đối với lao động nam cho đến khi đủ 62 tuổi vào năm 2028 và cứ mỗi năm tăng thêm 04 tháng đối với lao động nữ cho đến khi đủ 60 tuổi vào năm 2035.
Tiếp đó, báo điện tử VTV đã đăng tải bài viết với tiêu đề: "Chốt chưa tăng lương hưu trong năm 2025". Nội dung cụ thể như sau:
Sáng 13/11, với 428/430 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước năm 2025.
Quốc hội quyết nghị số thu ngân sách nhà nước là hơn 1.966.839 tỉ đồng. Sử dụng 60.000 tỉ đồng nguồn tích lũy cho cải cách tiền lương của ngân sách trung ương và 50.619 tỉ đồng nguồn cải cách tiền lương của ngân sách địa phương đến hết năm 2024 còn dư chuyển sang bố trí dự toán năm 2025 của các bộ, cơ quan trung ương và địa phương để thực hiện mức lương cơ sở 2,34 triệu đồng/tháng; tổng số chi ngân sách nhà nước là 2.548.958 tỉ đồng.
Mức bội chi ngân sách nhà nước là 471.500 tỉ đồng, tương đương 3,8% tổng sản phẩm trong nước (GDP), gồm: Bội chi ngân sách trung ương là 443.100 tỉ đồng, tương đương 3,6%GDP; bội chi ngân sách địa phương là 28.400 tỉ đồng, tương đương 0,2%GDP.
Tổng mức vay của ngân sách nhà nước là 835.965 tỉ đồng.
Về thực hiện chính sách tiền lương, một số chính sách xã hội, Quốc hội quyết định chưa tăng tiền lương khu vực công, lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng, trợ cấp ưu đãi người có công trong năm 2025.
Các bộ, cơ quan trung ương, địa phương tiếp tục thực hiện các giải pháp tạo nguồn cải cách chính sách tiền lương theo quy định. Cho phép tiếp tục loại trừ một số khoản thu khi tính số tăng thu ngân sách địa phương dành để cải cách tiền lương.
Cho phép từ ngày 1/7/2024 được mở rộng phạm vi sử dụng nguồn tích lũy cho cải cách tiền lương của ngân sách trung ương để điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng, trợ cấp ưu đãi người có công và tinh giản biên chế.
Cho phép sử dụng nguồn cải cách tiền lương của ngân sách địa phương để thực hiện các chính sách an sinh xã hội do Trung ương ban hành và tinh giản biên chế.
Cho phép các địa phương sử dụng nguồn cải cách tiền lương còn dư để đầu tư cho các dự án kết nối vùng, kết nối quốc gia, các công trình trọng điểm quốc gia thực hiện tại địa phương theo quy định của cấp có thẩm quyền. Thực hiện trong trường hợp địa phương có nguồn dư lớn, cam kết bảo đảm nguồn kinh phí cải cách tiền lương và thực hiện các chính sách an sinh xã hội do Trung ương ban hành cho cả lộ trình đến năm 2030 và không đề nghị ngân sách trung ương hỗ trợ.
Bổ sung dự toán thu ngân sách trung ương năm 2024 nguồn vốn viện trợ không hoàn lại là 21.284 triệu đồng và bổ sung tương ứng dự toán chi thường xuyên năm 2024 nguồn vốn viện trợ không hoàn lại là 21.284 triệu đồng cho các bộ, cơ quan trung ương và địa phương, gồm: Liên hiệp các Tổ chức hữu nghị Việt Nam là 2.115 triệu đồng chi sự nghiệp quản lý hành chính; Bộ Giao thông Vận tải là 567 triệu đồng chi sự nghiệp giáo dục - đào tạo và dạy nghề; UBND tỉnh Quảng Bình là 18.602 triệu đồng chi sự nghiệp kinh tế.
Điều chỉnh dự toán chi thường xuyên nguồn vốn viện trợ không hoàn lại nước ngoài năm 2024 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội như sau: Giảm 54.004 triệu đồng chi sự nghiệp kinh tế; tăng 40.513 triệu đồng chi sự nghiệp giáo dục - đào tạo và dạy nghề; tăng 12.740 triệu đồng, chi sự nghiệp bảo đảm xã hội; tăng 751 triệu đồng, chi sự nghiệp khoa học công nghệ.
Điều chỉnh tăng 360.245 triệu đồng vốn vay lại nước ngoài năm 2024 cho 7 địa phương; đồng thời điều chỉnh giảm 406.035 triệu đồng dự toán vốn vay lại nước ngoài năm 2024 của 12 địa phương.
Bổ sung dự toán thu phí chứng nhận xuất xứ hàng hóa năm 2024 do Bộ Công thương tổ chức thu là 118.591 triệu đồng, trong đó: số nộp ngân sách trung ương năm 2024 là 75.341 triệu đồng; số thu phí để lại cho Bộ Công thương là 43.250 triệu đồng.
Giao Chính phủ bổ sung dự toán chi cho Bộ Công thương từ nguồn thu phí chứng nhận xuất xứ hàng hóa để lại năm 2024 là 43.250 triệu đồng để chi cho nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.