Lương giáo viên được xếp cao nhất hệ thống và không cấm dạy thêm từ năm 2026
Từ 2026, giáo viên được hưởng lương cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp, hưởng phụ cấp ưu đãi nghề tùy theo tính chất công việc, theo vùng.
Ngày 16/6, báo VTC News có bài Lương giáo viên được xếp cao nhất hệ thống và không cấm dạy thêm từ năm 2026. Nội dung như sau:
Với 451/460 đại biểu tán thành (chiếm 94,35% tổng số đại biểu), Quốc hội vừa thông qua Luật Nhà giáo - đạo luật chuyên ngành đầu tiên quy định đầy đủ về vị trí pháp lý, quyền, nghĩa vụ và các chính sách dành cho đội ngũ giáo viên. Luật gồm 9 chương, 42 điều, hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2026.
Trình bày báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý trước khi Quốc hội bấm nút thông qua dự luật, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh khẳng định, dự thảo luật không cấm dạy thêm, chỉ quy định nhà giáo không được “ép buộc người học tham gia học thêm dưới mọi hình thức”, nhằm khắc phục tình trạng dạy thêm tràn lan.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội, yêu cầu nhà giáo không được dạy thêm cho học sinh mà mình đang trực tiếp giảng dạy hiện đã quy định trong thông tư về dạy thêm, học thêm của Bộ GD&ĐT.
Các đại biểu bấm nút thông qua Luật Nhà giáo sáng nay.
Một điểm mới đáng chú ý khác trong Luật vừa được thông qua là về chính sách tiền lương, đãi ngộ với nhà giáo.
Cụ thể, lương của nhà giáo được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp. Họ được hưởng phụ cấp ưu đãi nghề và phụ cấp khác tùy theo tính chất công việc, theo vùng.
Luật Nhà giáo quy định nhà giáo cấp học mầm non; nhà giáo công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; nhà giáo dạy trường chuyên biệt; nhà giáo thực hiện giáo dục hòa nhập; nhà giáo ở một số ngành, nghề đặc thù… được hưởng chế độ tiền lương và phụ cấp cao hơn so với nhà giáo làm việc trong điều kiện bình thường.
Với nhà giáo trong cơ sở giáo dục ngoài công lập, tiền lương thực hiện theo quy định của pháp luật về lao động.
Ngoài ra, theo quy định của Luật, nhà giáo còn được hưởng thêm các khoản phụ cấp đặc thù, trách nhiệm, ưu đãi, trợ cấp vùng khó khăn, trợ cấp giáo dục hòa nhập, thâm niên, lưu động…, góp phần nâng cao thu nhập toàn diện.
Luật Nhà giáo mở rộng chính sách hỗ trợ như: Hỗ trợ nhà ở công vụ hoặc tiền thuê nhà cho giáo viên tại vùng đặc biệt khó khăn; Trợ cấp sức khỏe định kỳ, đào tạo – bồi dưỡng nghề nghiệp cho tất cả nhà giáo, không phân biệt công lập – ngoài công lập; Ưu tiên trong tuyển dụng, điều động, tiếp nhận đối với nhà giáo công tác tại vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; Thu hút người có trình độ cao, kỹ năng nghề giỏi tham gia giảng dạy, nhất là trong các lĩnh vực chiến lược như khoa học, công nghệ, chuyển đổi số, giáo dục nghề nghiệp.
Giáo viên mầm non nếu có nguyện vọng được nghỉ hưu sớm hơn tối đa 5 năm và không bị giảm lương hưu (nếu đủ 15 năm đóng BHXH). Trong khi đó, giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ hoặc nhà giáo làm việc trong lĩnh vực đặc thù được nghỉ hưu ở tuổi cao hơn để giữ chân người tài.
Luật cũng hợp nhất hai hệ thống tiêu chuẩn (chức danh nghề nghiệp và chuẩn nghề nghiệp) thành một hệ thống chức danh gắn với chuẩn năng lực nghề nghiệp, áp dụng thống nhất cho cả công lập và ngoài công lập.
Việc này nhằm tạo mặt bằng chất lượng chung cho toàn bộ đội ngũ; Bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục chất lượng cho học sinh; Tăng tính minh bạch, dễ tiếp cận trong đánh giá, tuyển chọn và đào tạo nhà giáo.
Luật Nhà giáo cũng giao quyền chủ động cho ngành Giáo dục trong tuyển dụng, sử dụng nhà giáo. Trong đó, thống nhất giao thẩm quyền cho ngành giáo dục chủ động trong tuyển dụng nhà giáo, phân cấp thẩm quyền tuyển dụng cho người đứng đầu cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập được tự chủ tuyển dụng nhà giáo.
Bộ trưởng GD&ĐT được chủ động quy định thẩm quyền tuyển dụng nhà giáo trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên.
Việc giao thẩm quyền cho ngành Giáo dục trong tuyển dụng, sử dụng nhà giáo là bước điều chỉnh quan trọng nhằm tháo gỡ những “điểm nghẽn” về chính sách đối với nhà giáo, đặc biệt là giải quyết bài toán thừa thiếu đội ngũ; chủ động điều phối, hoạch định các kế hoạch phát triển đội ngũ ngắn hạn, trung hạn, dài hạn trong tương lai.
Ngày 12 tháng 6 năm 2025, tạp chí Người đưa tin đã đăng tải thông tin "Chính thức tăng lương hưu lần 3 từ 1/7/2025: Mức tăng cao nhất là bao nhiêu, ai cũng cần biết". Nội dung như sau:
Từ ngày 1/7/2025, khi Luật BHXH mới có hiệu lực sẽ tăng lương hưu lần thứ 3 cho những người có mức lương hưu thấp và nghỉ hưu trước năm 1995.
Mức lương hưu cao nhất từ 1/7/2025 là bao nhiêu?
Tại Điều 99 Luật Bảo hiểm xã hội 2024 quy định mức lương hưu hằng tháng như sau:
Đối với lao động nữ bằng 45% mức bình quân thu nhập làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội quy định tại Điều 104 của Luật này tương ứng 15 năm đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng thì tính thêm 2%, mức tối đa bằng 75%;
Đối với lao động nam, mức hưởng là 45% mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng BHXH cho 20 năm đóng BHXH, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng thì tính thêm 2%, nhưng tối đa không quá 75%.
Theo đó, từ 1/7/2025 khi Luật Bảo hiểm xã hội 2024 có hiệu lực, mức lương hưu cao nhất mà người lao động có thể nhận được là 75% mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng BHXH.

Đối tượng nào có mức lương hưu thấp nhất từ 1/7/2025?
Căn cứ theo Điều 67 Luật Bảo hiểm xã hội 2024 quy định về mức điều chỉnh lương hưu:
- Lương hưu được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng phù hợp với khả năng của ngân sách nhà nước và quỹ bảo hiểm xã hội.
- Điều chỉnh mức tăng lương hưu thỏa đáng đối với đối tượng có mức lương hưu thấp và nghỉ hưu trước năm 1995 bảo đảm thu hẹp khoảng cách chênh lệch lương hưu giữa người nghỉ hưu ở các thời kỳ.
- Chính phủ quy định thời điểm, đối tượng, mức điều chỉnh lương hưu quy định tại Điều này.
Tại Điều 99 Luật Bảo hiểm xã hội 2024, đối với người tham gia BHXH tự nguyện sẽ được điều chỉnh lương hưu được thực hiện theo quy định tại Điều 67 Luật Bảo hiểm xã hội 2024.
Đồng thời, căn cứ theo Điều 7 Luật Bảo hiểm xã hội 2024 quy định mức tham chiếu như sau:
- Mức tham chiếu là mức tiền do Chính phủ quyết định dùng để tính mức đóng, mức hưởng một số chế độ bảo hiểm xã hội quy định trong Luật này.
- Mức tham chiếu được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng, tăng trưởng kinh tế, phù hợp với khả năng của ngân sách nhà nước và quỹ bảo hiểm xã hội.
Ngoài ra, căn cứ theo Khoản 11, 13 Điều 141 Luật Bảo hiểm xã hội 2024 có nêu rõ về quy định chuyển tiếp như sau:
- Đối tượng quy định tại Điểm a, b, c, d, đ, g và i Khoản 1 Điều 2 của Luật này đã tham gia bảo hiểm xã hội trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc từ đủ 20 năm trở lên thì mức lương hưu hằng tháng thấp nhất bằng mức tham chiếu.
- Khi chưa bãi bỏ mức lương cơ sở thì mức tham chiếu quy định tại Luật này bằng mức lương cơ sở. Tại thời điểm mức lương cơ sở bị bãi bỏ thì mức tham chiếu không thấp hơn mức lương cơ sở đó.
Theo các quy định nêu trên, từ 1/7/2025, mức hưởng lương hưu thấp nhất sẽ dựa theo mức tham chiếu thay vì mức lương cơ sở như quy định hiện hành (theo Điều 56 Luật Bảo hiểm xã hội 2024) và mức tham chiếu này sẽ được điều chỉnh linh hoạt dựa trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng, tăng trưởng kinh tế, phù hợp với khả năng của ngân sách Nhà nước và quỹ bảo hiểm xã hội.